Tui nhớ ngày xưa ông Nội tui hay kể những chuyện ma Hời. Hổng biết giờ đây qua bao năm tháng, cái chuyện ma Hời có còn lan truyền trong làng xóm xuyên qua những rặng tre già từ bao đời ông cao tằng cố tổ nữa hay không. Bây giờ thời In-tẹc-nét bấm một cái nó bay cái rẹt khắp năm châu bốn bể để hái lượm lắm kỳ hoa dị thảo mà ngồi lặt lạnh lại ba cái chuyện ma Hời xưa kia ở cái chốn quê làng mình thì tui nghe nó cũng hơi lãng xẹt. Thế nhưng với anh em tụi tui hồi đó thì cứ mà ngồi lết há miệng ra nghe ông tui kể chuyện ma Hời mà tha hồ thả hồn phiêu du trong muôn tầng huyền hoặc của thế giới người xưa. Cái lằn phân ranh giới giữa thực và hư, giữa huyền thoại và lịch sử, giữa người và ma, hầu như là không có. Hình như là nhiều chuyện lắm, nhưng có một chuyện tôi nhớ nhất là vì nó ngắn nhất, và vì nó gắn liền với đời sống tui lúc đó, hiển hiện trong nhiều giai thoại của đời tui, và hơn nữa bây giờ nhớ lại tui thấy nó có những chi tiết buồn cười nhất.
Ông tui kể rằng xứ Mộ mình thủa xưa thuộc về vương quốc của Chiêm Thành. Từ độ người Chiêm Thành, còn gọi là người Hời, vong quốc, vương quốc của Chế Bồng Nga không còn nữa và người Hời cũng bị tận diệt hầu hết. Ông cha mình khai sơn lập địa trên miền đất đã vùi chôn không biết bao nhiêu là thống thiết bi ai, lẫn những di vật của người Hời xưa mà có một “món” gọi là Vàng Hời. Trong đêm trăng khuya bắt gặp những cục lửa sáng chạy lanh quanh trong vườn, ngoài đồng, dọc những bờ mương, bãi mía, lùm tre … thì đó là vàng Hời đang trồi lên mặt đất chạy đi tìm chủ nhân xưa cũ của nó. Hãy chạy theo mà chụp, lấy được Vàng Hời quí lắm. Nhưng mà phải xách cái đáy quần đàn bà mà chụp nó thì mới được.
Chuyện chụp Vàng Hời ông Nội tui kể chỉ bấy nhiêu thôi. Nhưng hồi nhỏ cái đầu óc non nớt của tui nó tưởng tượng thêu dệt nên không biết bao nhiêu là chuyện ly kỳ xung quanh những cục vàng Hời. Hồi đó tui nào có biết cái cục vàng nó ra làm sao, chi hiểu đại khái là nó phải quí giá lắm nên người ta mới nói là “quí như vàng”. Mà vàng Hời thì chắc là phải quí giá và ly kỳ lắm nếu có bắt được nó.
Cái thời tui lên mười, mười một tuổi, tui thích lắm những mùa mưa đông khi những cánh đồng đã qua mùa gặt, qua mùa lụt, ruộng trũng còn nước lội ngang ống quyển. Anh em tui thường đốt vỏ xe đạp hư (sau này hùn với ông bà con hàng xóm mới mua được cái đèn Măng-xông) để đi soi cá. Ông hàng xóm cầm nhánh Mù U cột cái vỏ xe đốt cháy, và xách cái nơm lớn. Còn tui thì mang cái đụt ngang hông, tay cầm cái nơm nhỏ. Thời đó có lẽ dân quê mình ít dùng thuốc trừ sâu và phân hóa học nên ruộng trũng sau mùa mùa mưa nước ngập có cá đồng nhiều, đợi khuya cá ngủ đi soi bắt cá sướng lắm. Cá giếc nó ngủ nghiêng nghiêng, bắt bỏ vô đụt rồi nó mới giật mình quẫy đành đạch. Cá thát lát nằm lao chao theo luồng nước nhỏ, bắt nó thiệt là dễ. Chỉ có cá tràu là tui chưa gặp nó ngủ bao giờ, rượt theo nó mệt nghỉ.
Tui đi soi cá mà mắt thì trông theo bóng cá, mắt thì ngóng chừng xa xa xem có đốm lửa nào chạy chạy không. Cái thú soi đồng bắt cá với tui hồi đó chỉ là một, nhưng cái hành trình ăn theo để tìm kiếm, chờ đợi, và rượt đuổi vàng Hời nó lay động tui tới mười. Khốn nỗi ra khỏi nhà ban đêm một mình thì sợ ma, nên dựa hơi cái hành trình băng đồng soi cá với ông hàng xóm thì vừa khỏi sợ ma vừa đi được xa băng qua nhiều đồng trên xóm dưới xuyên đêm khuya qua những ngõ tối quen lạ mịt mùng. Ông hàng xóm cũng đâu có biết được rằng đêm đêm trong những chuyến rượt đuổi cá ngoài đồng có thằng nhãi ranh mang đụt xách nơm đi theo mà lúc nào cũng giấu lận lưng một cái quần đen “mượn” tạm của bà Nội! Tui hoạch định trong đầu mình là nếu thấy vàng Hời thì tui sẽ lôi cái quần đen của Nội tui ra mà trùm lên cái nơm nhỏ của tui rồi chạy theo mà chụp nó với cái nơm trùm sẵn cái quần, như vậy sẽ dễ như mình rượt bắt cá tràu vậy. Cũng đã đôi lần tui lặng lẽ tách ra khỏi ông hàng xóm trong thoáng chốc để rượt theo một đốm lửa chạy mà tui thoáng thấy thoáng ẩn thoáng hiện dọc những lùm dứa bờ gò. Cá thì lắm đêm về nhà đầy đụt, nhưng tui chưa từng một lần được dịp dùng đến cái quần vải đen của bà Nội tui. Tới giờ này bà Nội tui cũng chưa hề biết cái chuyện động trời tui ăn trộm cái quần của bà mang theo những đêm soi cá.
Ông Nội tui giờ không còn nữa để tui có thể hạch hỏi lại ông tại sao người ta lại cần phải lấy cái quần đàn bà để bắt vàng Hời. Tui chắc là mình có hỏi ông tại sao lại vậy, nhưng có lẽ lời giải thích của ông tui hồi đó tui chưa hiểu hết, hoặc giả là tui đã quên đi mất rồi, vì cái hấp dẫn cái thằng cu tui hồi đó là tin rằng đâu đó lẫn khuất nơi ngõ ngách xóm làng mình là vàng Hời. Cái lý giải cho cặn kẽ sự đời đối với những đầu óc trẻ thơ nó không có giá trị gì mấy so với sự tin tưởng thật thà vào những chuyện ông bà cha mẹ mình nói là có hay không. Cách đây mấy năm tui hỏi một nhà Nho học quê xứ An Mô thì được ông giải thích có lẽ nó bắt nguồn từ sự nghịch ngợm của ông bà xưa mình chăng. Đêm trăng khuya nam thanh nữ tú đi dự hội làng về, băng qua gò đồng gặp lửa ma trơi, phải cởi quần ra mà rượt mà chụp … thì mới mong bắt được. Ối ơi, còn sự nghịch ngợm chi bằng! Lần đó nghe lý giải như vậy, cái thế giới ma Hời huyễn hoặc của tui nó bể ra từng miếng như người ta cuốc trúng cái hũ sành cũ khi đào hào đánh gốc lùm tre. Bây giờ ngồi gõ lốc cốc mấy dòng này, từng mảnh sành vỡ như tự nó lách cách xếp đặt lại … Ôi xưa tôi leo lắt lửa ma Hời …
Ta ngồi đây nghe gió thoảng mưa bay
Nghe lòng dạ bỗng dưng buồn nhật nguyệt
Từ cổ độ vọng về lời thê thiết
Điệu ma Hời vay trả chuyện non sông
Từ bao thủa con đò quen mặt sóng
Quên hờn oan vong quốc, bặt tăm dòng
Từ thăm thẳm nơi bùn sâu cội mục
Lửa rừng thiêng le lói một ven sông
Thứ lỗi cho câu cú lủng cà lủng củng vì tui chẳng phải là văn sĩ văn siếc hay thi sĩ thi siếc gì hết ráo. Thứ lỗi cho tính xác thực của những chi tiết lịch sử hay dã sử hay gì gì đó trong đoạn viết này, vì rằng tất cả chỉ là những lượm lặt vụn vặt trong miền ký ức tôi qua cái nhìn và nhận của một thằng cu nhà quê lên mười. Chia xẻ cùng bè bạn đồng hương đồng khói chút ít những mảnh sành trong ký ức về một vùng quê nơi cắt rún chôn nhau để lỡ mai chết thì cũng không còn ấm ức là chưa nói ra cái chuyện ăn trộm cái quần của bà Nội để đi chụp vàng Hời.
thangCu
(ngày ba mươi tháng tư năm hai ngàn mười một)
“… Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn…”
VỤN VẶT … MIỀN KÝ ỨC
TẤM LÒNG CỦA MỘT NGƯỜI THẦY!
….
Đọc những dòng tâm sự của những ký ức thuở xa xưa về những người bạn, về trường … của Hữu Phu, thằng DuyCyclo tôi lại nhớ về một người Thầy của thuở ấu thơ. Mạn phép mượn chút đất của diễn dàn gửi đến các bạn câu chuyện nhỏ về Thầy – một tấm gương đã soi rọi những tia nắng ấm áp cho lũ học trò chúng tôi của những năm thập niên 80 – thay cho lời TRI ÂN mà chúng tôi còn nợ.
Năm chúng tôi học lớp 8 (1980-1981) Trường PTCS Đức Hiệp, ngôi trường đã hơi cũ vì được xây dựng từ trước năm 1975 trên địa bàn Thôn Nghĩa Lập. Vào năm học mới, lớp chúng tôi vô cùng hứng khởi vì đón nhận được tin vui: Có Thầy chủ nhiệm mới. Trong buổi chào cờ, nhìn lên hàng ghế dành cho giáo viên, thoáng chút ngỡ ngàng khi chúng tôi phát hiện Thầy chủ nhiệm của mình có gương mặt vô cùng … măng tơ (vì chỉ có 01 Thầy và 03 Cô thôi) và một cái tên ấn tượng, làm tất cả mọi người … cười ồ lên: TRẦN HỮU HÁN.
Thầy thậm chí còn nhỏ tuổi hơn một vài vị trong lớp, do có những anh chị trước đây ở trên vùng Cách mạng nên chuyện học hành bị gián đoạn. Vì thế khi vào trong lớp, có lẽ Thầy cũng hơi choáng ngợp, không những về những cô cậu học trò lớn tuổi, mà còn vì sự bạo dạn, tinh nghịch có phần hơi quá đáng của chúng tôi. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi chỉ đơn giản là một Thầy giáo vừa ra trường, trẻ trung, hiền lành và … chấm hết! Thế nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, Thầy đã làm thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ ban đầu và chúng tối đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Hối ấy, cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, có lẽ không cần phải nói đi nói lại nhiều lần nữa nhỉ?! Hầu như tất cả chúng tôi cuốc bộ đi học với đoạn đường đi về gần cả chục km. Sách thì thôi khỏi nói. Cả tổ hơn 10 người phải chuyền tay nhau 1,2 cuốn sách thuộc nhóm quý hiếm như: Toán, Vật Lý, Hóa … Và chương trình dạy, học thêm gần như không có, tự lực cánh sinh là chính. Khi cảm nhận được trình độ học sinh trong lớp học không đều và cũng không tốt lắm các môn tự nhiên, Thầy đã lên kế hoạch phụ đạo cho cả lớp môn Toán, cho dù chuyên môn chính của Thầy là Hóa - Sinh. Đêm đêm, tất cả chúng tôi cùng tề tựu về trường. Mỗi bạn mang theo một cái đèn dầu (làm gì có điện?!), ngay cả sử dụng loại dầu hỏa màu trắng cũng thuộc dạng xa xỉ phẩm, chủ yếu là dầu a-zon đỏ quạch mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là chúng tôi học … miễn phí! Suốt cả năm học đó Thầy không hề lấy dù một khoản thù lao dù ít ỏi nào. Dù có đứa học đứa không, đứa nghịch ngợm, phá phách, nhưng Thầy chưa bao giờ tỏ ý phàn nàn, Thầy chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ và chú tâm truyền đạt kiến thức. Học xong cả lũ chúng tôi ở ngủ luôn tại lớp để sáng hôm sau học tiếp luôn.(Có rất nhiều câu chuyện vui, khôi hài trong khoản thời gian này, nếu có dịp tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe nhé!). Và từ đó, phong trào dạy phụ đạo … miễn phí lan tỏa khắp cả trường, tất nhiên những người được lợi là lũ Học sinh chúng tôi. Điều đáng quý và đáng nói ở đây, Thầy là người tiên phong và là điếm nhấn tạo ra sức bật cho phong trào dạy học vì tình thương chứ không đơn thuần vì miếng cơm, manh áo, đặc biệt trong thời bao cấp, giá trị của nó được nhân lên gấp bội lần.
Ngay Tết năm ấy, có nghĩa chỉ sau 01 học kỳ bên nhau, nhẽ ra Thầy sẽ trở về quê Nghệ An để đón Tết cùng gia đình. Nhưng lũ con trai chúng tôi hay chơi thân với Thầy (khoảng 10 tên) cứ nài nỉ Thầy ở lại ăn Tết Quãng Ngãi. Cuối cùng Thầy đồng ý. Những ngày cận Tết là vui nhất, ngoài một ít thời gian giúp đỡ gia đình ra, cả đám chúng tôi kéo nhau xuống nhà chơi cho Thầy đỡ buồn. Nói là nhà cho sang, thực ra đó là căn hộ tập thể mà nhà trường xây dựng cho các Thầy, Cô ở xa ngụ lại, chỉ là căn nhà nhỏ lợp bằng rạ, trát đất, nhưng bên trong tràn đầy niềm vui và đầy ắp tiếng cười. Lúc ấy, tôi còn nhớ mối tháng Thầy nhận được đâu khoảng 18 – 21 kg gạo tiêu chuẩn. Và cũng nhận chừng ấy gạo để chuẩn bị ăn Tết. Vừa nhận xong, cả đám chúng tôi ở lại chơi chỉ có mấy ngày là hết sạch gạo của Thầy. Thế là lũ chúng tôi mời Thầy lên nhà từng đứa một. Thầy rất ngại, nhưng khi được gia đình đón tiếp rất nhiệt tình nên cảm giác xa lạ của Thầy cũng qua đi. Mấy ngày Tết mỗi đứa xin một ít quà bánh mang xuống và vui với Thầy (Chứ chúng tôi ăn sạch sành sanh của Thầy rồi còn gì cho Thầy ăn nữa?!). Một cái Tết đầu tiên trong cuộc đời Thầy ở quê hương Quảng Ngãi dần trôi qua như thế. Sau này, Thầy chọn nơi này là quê hương thứ hai, và cũng đã có nhiều cái Tết, nhưng tôi nghĩ, cái Tết đầu tiên sẽ mãi mãi không bao giờ phai trong ký ức của Thầy.
..........................…
“… Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn…”
VỤN VẶT … MIỀN KÝ ỨC
…
Không biết là đã bao lâu rồi mình không ghé nơi này nhỉ? Uh thì thôi, chắc cũng chỉ thêm vài chiếc lá vàng rơi. Càng ngày thấy càng đông thành viên, vui phải biết. Thơ văn cứ tha hồ "lai láng chảy". Bùi ngùi một tí, tui lại ... ước gì! Ước gì ngày xưa, mấy "cha" mà thơ văn như bi chừ thì thằng tui đỡ vài phen toát mồ hôi hột. Kể lại một chút xíu cái thuở xa xưa …
Hồi năm học 11C (84-85) Cô Xanh Chủ nhiệm, Lớp giao cho tui với Huỳnh Văn Khải (Nói có hương hồn Chàng, tui hổng dám nói xạo) làm tờ Báo tường. Cả tháng trôi qua, đếm đi đếm lại mà chỉ có mấy bài … cụt ngủn. Chưa bao giờ tui thấy tờ báo khổ giấy Ao nó … lại to đến thế?! Ngay như Cu Khải nhà ta, thuộc diện văn hay chữ tốt cũng phải thốt lên “ Biết khi nào cho tờ Báo nó đầy để đi nộp đây hả trời …?” Đến ngày cuối cùng, mặt mày ủ dột như đưa đám. May sao trời thương cho Buomtrang xuất hiện. Nghe lời than vãn sặc mùi thống thiết của tụi tui, Buomtrang đành ra tay nghĩa hiệp. Chỉ một buổi chiều, khứa mang ra cho … mấy trang giấy chi chít chữ. Đúng là “Sớ Táo quân” có khác! Viết một hồi mỏi cả tay, Khải bảo, “mới lấp được có ¼ trang thôi mầy, còn ¼ trang nữa. Trời ….!!!” Hì hà hì hục … tui quay ra viết … Truyện ngắn. Hai thằng cày bừa tới 12h đêm cũng “quất” xong kín được tờ Báo tường. Hú hồn, thế là sáng mai có nộp. Tui hổng nhớ thứ hạng của tờ Báo, hình như lơ lơ lửng lửng giữa chừng thì phải.
Giờ tui lại … ước gì…! Ước gì … còn tờ Báo tường năm nào để đọc, xem lại chữ nghĩa một thời …
Nguyễn Đức Duy (DuyCyclo)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét